CỤM DI TÍCH NÀ NƯA

Có những dòng lịch sử mà thời gian không thể xóa nhòa, đó là khu di tích lịch sử Tân Trào. Trong lịch sử cách mạng Việt Nam Tân Trào - Tuyên Quang là một địa danh thân thiết, thiêng liêng, ghi dấu nhiều sự kiện lịch sử trọng đại của dân tộc.

 1. LÁN NÀ NƯA:

Lán Nà Nưa là nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ở và làm việc từ cuối tháng 5 đến ngày 22 tháng 8 năm 1945, để chuẩn bị và lãnh đạo cuộc Tổng khởi nghĩa cách mạng tháng Tám năm 1945

Sau ngày Nhật đảo chính Pháp (09/03/1945), cuộc khởi nghĩa ngày 10 tháng 3 năm 1945 tại Thanh La giành thắng lợi, Châu Tự do được thành lập bao gồm các xã vùng thượng huyện Sơn Dương, Tân Trào nằm trong vùng tự do, có đủ điều kiện thuận lợi để Bác Hồ chọn làm nơi ở và làm việc, chỉ đạo cuộc Tổng khởi khĩa tháng Tám năm 1945.

Ngày 4 tháng 5 năm 1945, lãnh tụ Hồ Chí Minh bắt đầu cuộc hành trình Pác Bó (Cao Bằng) về Tân Trào (Sơn Dương) theo con đường nam tiến mà Bác đã vạch ra cho đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân ngày trước. Đồng chí Võ Nguyên Giáp đang công tác tại khu vực phía nam căn cứ địa Việt Bắc được tin lên đón người ở chợ Đồn (Bắc Kạn). Người yêu cầu: “Cần phải chọn ngay trong vùng Tuyên Quang hoặc Thái Nguyên một địa điểm tốt có dân tốt, địa hình tốt làm trọng tâm liên lạc, giữa miền xuôi và miền ngược và ra nước ngoài làm nơi ở và làm việc để Người trực tiếp chỉ đạo cuộc khởi nghĩa sắp tới”.

Nhận được lệnh đồng chí Võ Nguyên Giáp trở về Kim Quan Thượng  (thuộc huyện Yên Sơn, cách  Tân Trào 10km) bàn với đồng chí Song Hào, quyết định chọn Tân Trào, Sơn Dương, Tuyên Quang làm nơi đặt đại bản doanh của đồng chí Hồ Chí Minh .

Trải qua 18 ngày đêm, Bác đến Tân Trào ngày 21 tháng 5 năm 1945, nơi dừng chân đầu tiên của Bác là đình Hồng Thái. Sau đó Bác vào làng Tân Lập ở và làm việc tại gia đình nhà ông Nguyễn Tiến Sự (chủ nhiệm Việt Minh của làng Kim Long). Hai nhân viên điện đài theo Bác suốt hành trình được bố trí vô tuyến điện dưới các tán cây trong vườn nhà ông Nguyễn Tiến Sự, với nhiệm vụ giữ liên lạc giữa ta và quân Đồng Minh. Được ít ngày sau, để đảm bảo bí mật và tiện làm việc Bác bàn với các đồng chí cán bộ địa phương dẫn Bác đi chọn địa điểm để dựng một căn lán. Qua vài địa điểm đến nơi căn lán bây giờ, Bác đồng ý dựng lán, sau đó Bác chuyển từ nhà ông Nguyễn Tiến Sự lên lán Nà Lừa.

Nà Nưa à một căn lán  nhỏ, nằm ở sườn núi Nà Nưa, cách làng Tân Lập  500 m về hướng đông, lán được dựng theo kiểu nhà sàn của người miền núi, dưới các tán cây rậm rạp đảm bảo  an toàn, bí mật cũng như đáp ứng được yêu cầu của Bác đề ra: “Gần nước, gần dân, xa đường quốc lộ, thuận đường tiến, tiện đường thoái” (Từ Nà Lừa theo hướng đông bắc vượt qua đèo De sang Phú Đình, Định Hoá qua điềm Mạc ra ngã ba Quán Vuông, ngược phía Bắc lên thị trấn Chợ Chu, Định Hoá, lên chợ Đồn, theo hướng đông nam về thị xã Thái Nguyên và Đại Từ. Theo hướng nam Kim Long (Tân Lập) qua Kim Trận 15km ra huyện lỵ Sơn Dương để đi Vĩnh Phúc, Vĩnh Yên và lên thị xã Tuyên Quang. Ngoài ra còn nhiều con đường mòn đi Kim Trận, Lương Thiện, Nà Tè...). Lán Nà Nưa có hai gian nhỏ, gian bên trong là nơi Bác nghỉ ngơi, gian bên ngoài là nơi Bác làm việc và tiếp khách.

Theo đồng chí Hoàng Văn Thái, một trong những chỉ thị đầu tiên của Bác Hồ khi đến Tân Trào là phải khẩn trương mở trường đào tạo cán bộ. Sau đó, ngày 25/6/1945, Trường  quân chính kháng Nhật khoá I khai giảng tại Khuổi Kịch, Tân Trào. Bác đến  trường thăm hỏi tình hình học tập và sinh hoạt của học viên.

              Chấp hành chỉ thị của Bác và Tổng bộ Việt Minh, ngày 4 tháng 6 năm 1945, Hội nghị cán bộ toàn khu được tổ chức tại lán Nà Nưa. Hội nghị đã quyết định thành lập khu giải phóng; Thống nhất các lực lượng vũ trang thành quân giải phóng; đề ra 10 chính sách lớn của Việt Minh và Tân Trào được chọn làm trung tâm thủ đô khu giải phóng.

Khi làm việc ở lán Nà Nưa, do điều kiện làm việc của Bác hết sức gian khổ và khó khăn, với những bữa ăn đạm bạc chỉ có măng rừng chấm muối vừng, cơm chan nước chè xanh. Trước hoàn cảnh sống và làm việc như vậy, cộng với sự khắc nghiệt của núi rừng, sức khoẻ của Bác đã giảm sút. Cuối tháng 7 năm 1945, giữa lúc tình hình trong nước cũng như thế giới đang tiến triển có lợi cho ta thì Bác ốm. Bác sốt liên miên, lúc tỉnh lúc mê, trong những ngày đó mọi người đều lo lắng cho Bác, có người vào rừng tìm lá thuốc về sắc nước cho Bác uống, có người ra sông Phó Đáy bắt được con ba ba đem về cắt tiết nhỏ vào rượu cho Bác uống và cầu mong cho Bác mau khỏi bệnh.

             Đồng chí Võ Nguyên Giáp lúc đó đang ở và làm việc tại gia đình nhà ông Hoàng Trung Dân dưới làng Tân Lập, hàng ngày đồng chí thường lên lán Nà Lừa báo cáo tình hình công việc với Bác. Một hôm lên báo cáo công việc, đồng chí Võ Nguyên Giáp thấy Bác rất yếu, đồng chí đã xin phép Bác nghỉ lại với Bác. Đêm ấy, tỉnh lại sau cơn sốt, Người nói với đồng chí Võ Nguyên Giáp: “Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng cương quyết giành cho được độc lập”. Lúc khác Bác lại dặn: “ Lúc nào cũng phải chú trọng xây dựng chi bộ, bồi dưỡng cán bộ đảng viên và các phần tử trung kiên, trong chiến tranh du kích lúc phong trào lên ta phải hết sức phát triển vừa phát triển vừa chú ý xây dựng căn cứ cho thật vững chắc đề phòng lúc khó khăn mới có chỗ đứng chân được”. Những lời dặn dò của Bác khẳng định quyết tâm vì tấm lòng khát khao giành độc lập khi thời cơ đã chín muồi.

            Hôm sau đồng chí Võ Nguyên Giáp cử người báo cáo tình hình sức khoẻ của Bác cho các đồng chí Trung ương và tìm người chữa bệnh cho Bác. Nhờ sự mách bảo của bà con, có một cụ lang già đến chữa bệnh cho Bác. Sau khi xem mạch , cụ lang  vào rừng và đem về một thứ củ gì đó, đốt cháy, hoà vào cháo loãng mời Bác uống. Sau một vài lần như vậy, Bác đỡ dần và tiếp tục làm việc ngay.

Cùng với cao trào kháng Nhật đang phát triển rất mạnh trong cả nước Việt Nam, cuộc chiến tranh Châu Á - Thái Bình Dương đang diễn ra màn chót. Cục diện chung đang chứng minh lời Bác dặn ít ngày trước đó: “...thời cơ thuận lợi đã tới...” Bác đã chỉ thị tổ chức gấp Hội nghị cán bộ toàn quốc của Đảng và Đại hội Quốc dân. Người nói với Thường vụ Trung ương “Nên họp ngay và không nên kéo dài Hội nghị, chúng ta phải tranh thủ từng giây phút. Tình hình sẽ chuyển biến nhanh chóng, không thể để lỡ cơ hội”.

          Ngày 13 tháng 8 năm 1945, Hội nghị cán bộ toàn quốc của Đảng khai mạc trong không khí hết sức khẩn trương. Về dự có gần 30 đại biểu, đại diện cho ba miền Bắc, Trung, Nam, các chiến khu.

Sau khi phân tích mọi mặt về điều kiện khách quan và chủ quan và đi đến kết luận: “Những điều kiện khởi nghĩa đã chín muồi, cơ hội tốt cho ta giành chính quyền, độc lập đã đến...” Hội nghị quyết định phát động toàn dân tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Uỷ ban khởi nghĩa toàn quốc được thành lập gồm 5 đồng chí: Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Trần Đăng Ninh, Lê Thanh Nghị và Chu Văn Tấn do đồng chí Tổng Bí thư Trường Chính trực tiếp phụ trách.

23h ngày 13 tháng 8 năm 1945, Uỷ ban khởi nghĩa ra bản quân lệnh số I, hạ lệnh toàn dân đứng dậy giành chính quyền.

Ngày 15 tháng 8 năm 1945, sau khi được tin Nhật Bản chính thức đầu hàng quân Đồng Minh vô điều kiện. Bác Hồ đã đề nghị Hội nghị nên kết thúc sớm để đại biểu còn kịp về các địa phương lãnh đạo khởi nghĩa.

 Ngày 22 tháng 8 Bác Hồ rời căn lán Nà Lừa về Hà Nội theo đường Đèo Khế , Cù Vân (Thái Nguyên).

So với cả cuộc đời hoạt động cách mạng của Bác Hồ, ba tháng Người dừng chân tại Tân Trào, hè thu năm 1945, chỉ là một thời gian rất ngắn. Nhưng chính từ căn lán đơn sơ trên khu đồi Nà Nưa, với  những nhận định đúng đắn, với những quyết tâm kịp thời, táo bạo về thời cơ cách mạng, Bác Hồ đã chỉ đường cho toàn dân vươn tới một bước ngoặt có ý nghĩa lịch sử vĩ đại. Từ bước ngoặt đó, dân tộc Việt Nam chấm dứt những ngày tháng nô lệ, tiến sang kỷ nguyên độc lập, tự do./.

2. LÁN CẢNH VỆ:

Để đảm bảo an toàn cho Bác Hồ, các đồng chí cảnh vệ dựng một căn lán nhỏ để ở và làm việc ngay sát chân đồi Nà Nưa cách lán Nà Nưa chừng 20m về hướng Tây, nơi án ngữ con đường mòn từ làng  Tân Lập vào hoặc từ Thái Nguyên sang. Ngoài ra còn có nhiều trạm gác bí mật đặt xung quanh khu vực Bác Hồ ở và làm việc.

Lực lượng cảnh vệ  bảo vệ Bác và  các cơ quan Trung ương được biên chế thành các tiểu đội nhỏ. Các tiểu đội được bố trí đóng ở các khu vực xung quanh. Trong số này có một tiểu đội cận vệ đặc biệt đóng tại khu đồi Nà Nưa có nhiệm vụ bảo vệ trực tiếp Bác Hồ và Trung ương Đảng. Tiểu đội này có 8 người do đồng chí Phạm Văn Quý làm tiểu đội trưởng và các đội viên : Kim Anh,  Văn Lâm, Giang Lâm, Nông Ngọc Tuấn, Đinh Đại Toàn...Lực lượng cảnh vệ có nhiệm vụ kiểm soát tình hình an ninh trong khu vực, theo dõi người lạ mặt bảo đảm tuyệt đối  an toàn cho Bác Hồ và Trung ương Đảng. Ngoài những nhiệm vụ nêu trên, lực lượng cảnh vệ còn có nhiệm vụ đưa đón, dẫn đường cho các đồng chí cán bộ đi dự các hội nghị quan trọng như: Hội nghị cán bộ toàn Quốc của Đảng hay Quốc dân Đại hội Tân Trào.

Trong những ngày chuẩn bị cho cuộc tổng khởi nghĩa cách mạng Tháng Tám, việc bảo vệ an toàn cho khu căn cứ địa Tân Trào là việc đặc biệt quan trọng. Trong thời gian ở và làm việc tại đây, các đồng chí cảnh vệ vượt lên mọi khó khăn gian khổ, với tài, trí và lòng dũng cảm, đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, góp phần vào sự thắng lợi của cách mạng Tháng Tám lịch sử. Nơi đây đã chứng kiến  sự trưởng thành và phát triển của lực lượng cảnh vệ, đã ghi dấu tình đoàn kết giữa cán bộ cách mạng và nhân dân địa phương trong suốt quá trình Chủ tịch Hồ Chí Minh ở, làm việc tại Tân Trào.

3. LÁN ĐIỆN ĐÀI:

Cuối năm 1944 viên phi công Mỹ có tên là Sao bị Nhật bắn rơi máy bay phải nhảy dù xuống Cao Bằng và được lực lượng Việt Minh cứu thoát. Bác Hồ nhận thấy đây là cơ hội tốt để tiếp xúc với quân Đồng Minh. Vì vậy, vào tháng 2 năm 1945, Hồ Chí Minh đã lên đường đi Côn Minh vừa để trao trả trung uý Sao, mặt khác qua việc trao trả này sẽ gặp được người lãnh đạo cao nhất của quân Đồng Minh tại Côn Minh- Trung Quốc.

Ngày 29/3/1945 Hồ Chí Minh đã hội đàm với tướng Sê Nôn tư lệnh không quân 14, Trong cuộc hội đàm Hồ Chí Minh yêu cầu quân Đồng Minh công nhận  Mặt trận Việt Minh là đại diện chính thức của tổ chức ủng hộ quân Đồng Minh chống phát xít. Thông qua đây Hồ Chí Minh cũng mong muốn  quân Đồng Minh giúp ta về điện đài và đào tạo cán bộ điện đài.   

Ngay sau đó Sác Lơ Phen đã cử người hợp tác với Mặt trận Việt Minh  giúp đỡ ta đào tạo cán bộ điện đài và liên lạc vô tuyến điện giữa ta và quân Đồng Minh. Khi Bác về nước hai nhân viên điện đài tên là Mác Xin và Phăng Tan cũng theo Bác về nước.

Trong thời gian ở và làm việc tại đây, Phăng Tan là người chỉ huy, Mác xim là người giúp việc. Cùng làm việc với hai người lính Đồng Minh còn có đồng chí Kim Hùng, đồng chí Lưu Minh Đức, Đoàn Hồng Sơn, Phạm Việt Bắc, Phạm  Văn Quý...

Đây là nơi thông tin liên lạc giữa Mặt trận Việt Minh và quân Đồng Minh (tại Côn Minh - Trung Quốc) khi nước nhà chưa giành được độc lập. Sự có mặt của  những người bạn Đồng Minh tại Tân Trào đã tạo điều kiện thuận lợi cho ta nắm bắt những thông tin quan trọng về tình hình thế giới, thể hiện sự lãnh đạo tài tình của Bác Hồ, của Trung ương Đảng trong việc tranh thủ sự giúp đỡ của quân Đồng Minh tiến hành khởi nghĩa cách mạng tháng Tám năm 1945.

4. LÁN ĐỒNG MINH:

Tháng 2 năm 1945  Hồ Chí Minh rời Cao Bằng tới Côn Minh (Trung Quốc) với một sứ mệnh đặc biệt quan trọng- Mở cuộc vận động cho Việt Minh vào phe Đồng Minh chống chủ nghĩa phát xít.

Côn Minh là một trong những căn cứ quan trọng của lực lượng Đồng Minh trên đất Trung Quốc. Tại đây 17/03/1945, Sáclơpen đã tiếp xúc với Hồ Chí Minh. Sau cuộc tiếp xúc này hai bên  đã thoả thuận về sự hợp tác trong cuộc chiến đấu chống kẻ thù chung là phát xít Nhật.

- Phía Việt Minh: Đảm bảo địa bàn cho quân Đồng Minh hoạt động  cung cấp thông tin về hệ thống phòng không về việc chuyển quân của quân Nhật trên  đất Việt Nam những thông tin về khí tượng.

- Phía Đồng Minh: Cung cấp vũ khí đạn dược hạng nhẹ, thuốc men và đào tạo thông tin viên cho Việt Minh.

Đầu tháng 4/1945 Bác Hồ về nước chuẩn bị địa bàn tiếp nhận quân Đồng Minh. Ngày 30/06/1945, qua hệ thống điện đài Người đã trả lời Party (đại diện tình báo Mỹ ở Côn Minh - Trung Quốc) đồng ý  cho một nhóm quân Đồng Minh nhảy dù xuống Tân Trào. Theo thoả thuận, ngày 16/07/1945 một nhóm sỹ quan quân Đồng Minh mang mật danh "con nai" gồm 5 người do thiếu tá ThôMát chỉ huy đã nhảy dù xuống Tân Trào. Để tiện ở và làm việc các đồng chí cảnh vệ dựng một căn lán nhỏ cách lán Nà Lừa khoảng 60m về phía suối cho những người lính Đồng Minh ở.

Cuối tháng 7/1945 đội "con nai" được bổ xung thêm 4 người, ngoài nhiệm vụ của họ ra, đội "con nai" đã cung cấp cho Việt Minh một số vũ khí nhẹ, trực tiếp huấn luyện cho các chiến sỹ quân giải phóng sử dụng súng cacbin, tiểu liên, súng cối, lựu đạn và huấn luyện quân sự cho đại đội Việt- Mỹ.

Ngày 7/08/1945 đội "con nai" cùng đại đội Việt - Mỹ di chuyển đến Khuổi Kịch (Tân Trào) để huấn luyện quân sự.

Ngày 16/8/1945, đội “con nai” cùng quân giải phóng tiến sang Thái Nguyên và tiến về Hà Nội

Lán Đồng Minh tại khu rừng Nà Nưa trong thời kỳ chuẩn bị Tổng khởi nghĩa cách mạng Tháng Tám đã ghi dấu sự hợp tác giữa Mặt trận Việt Minh và phái đoàn Đồng Minh. Với chính sách đối ngoại đa phương, tận dụng mọi sự ủng hộ, giúp đỡ của các lực lượng, đây thực sự là sách lược mềm dẻo, linh hoạt của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

5. LÁN HỌP HỘI NGHỊ CÁN BỘ :

Cách lán Nà Nưa 20m về phía trên núi là lán họp Hội nghị cán bộ toàn quốc của Đảng.

Theo để nghị của đồng chí Hồ Chí Minh, hội nghị toàn quốc của Đảng được triệu tập tại Tân Trào, hội nghị diễn ra trong 3 ngày từ ngày 13 đến ngày 15/8/1945. Tham dự hội nghị có hơn 30 đại biểu trong toàn quốc gồm các đồng chí: Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Nguyễn Lương Bằng, Phạm Văn Đồng, Vũ Anh, Nguyễn Chí Thanh, Võ Nguyên Giáp, Lê Đức Thọ, Hà Huy Giáp, Lê Giản , Chu Văn Tấn, Lê Thanh Nghị, Hoàng Văn Hoan, Song Hào, Hoàng Quốc Việt, Hoàng Hữu Nam, Trần Huy Liệu, Trần Đăng Ninh, Vũ Oanh…

Sau khi phân tích những điều kiện chủ quan và khách quan để một cuộc khởi nghĩa nổ ra thắng lợi, hội nghị quyết định phải kịp thời phát động và lãnh đạo toàn dân tổng khởi nghĩa để giành chính quyền từ tay phát xít Nhật và bè lũ tay sai trước khi quân Anh, Tưởng kéo vào Việt Nam. Để đảm bảo lãnh đạo tổng khởi nghĩa thắng lợi, hội nghị đề ra 3 nguyên tắc:

a.Tập trung: tập trung lực lượng vào những việc chính.

b.Thống nhất: thống nhất mọi phương diện, chính trị, hoạt động chỉ huy

c.Kịp thời: kịp thời hành động không bỏ lỡ thời cơ.

Hội nghị nhận định: “cơ hội rất tốt cho ta giành độc lập đã tới”. Hội nghị quyết định mục đích của cuộc chiến đấu là giành quyền độc lập hoàn toàn cho đất nước, thành lập chính quyền cho nhân dân, thi hành 10 chính sách của Việt Minh, định chính sách với Đồng Minh. Hội nghị định ra nhiệm vụ quân sự cần thiết, những nguyên tắc của kế hoạch tác chiến…Ngoài ra hội nghị còn đặt quốc ca và định quốc hiệu cho quốc gia Việt Nam.

Hội nghị đã thành lập uỷ ban khởi nghĩa toàn quốc gồm 5 đồng chí: Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Lê Thanh Nghị, Chu Văn Tấn,Trần Đăng Ninh do đồng chí Trường Chinh Tổng bí thư trực tiếp phụ trách.

23h ngày 13 tháng 8 năm 1945, uỷ ban khởi nghĩa toàn quốc ra bản quân lệnh số I, hạ lệnh tổng khởi nghĩa trong toàn quốc.

Trong hội nghị này các đồng chí Nguyễn Chí Thanh, Võ Nguyên Giáp…được bầu bổ sung vào Ban chấp hành TW Đảng.

Ngày 15/8/1945, sau khi nhận được tin Nhật chính thức tuyên bố đầu hàng quân Đồng Minh vô điều kiện, Bác Hồ đề nghị hội nghị nên mau chóng kết thúc để các đại biểu trở về địa phương, kịp thời phát động quần chúng khởi nghĩa giành chính quyền.

Hội nghị toàn quốc của Đảng kết thúc cũng là lúc cả nước sôi nổi, khẩn trương bước vào cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền.

 

Hải Nguyễn


Bài viết liên quan